Trang chủ -> LỊCH SỬ VIÊT NAM -> Chương IV. Thời Bắc thuộc lần thứ 1 (207 TCN? - 39) - NƯỚC NAM VIỆT
 01/10/2014 18:20


NƯỚC NAM VIỆT




Nước Nam Việt và Âu Lạc

Nam Việt (chữ Hán: 南越) là một quốc gia cổ có lãnh thổ bao gồm một số phần của các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc hiện đại và phần lớn miền Bắc Việt Nam, dưới sự cai trị của Nhà Triệu. Nam Việt do Triệu Đà, một viên quan nhà Tần (Trung Quốc) thành lập năm 207 TCN. Kinh đô của Nam Việt là thành Phiên Ngung (番禺), nay là một quận thuộc Quảng Châu, Trung Quốc.

Lịch sử

Thành lập

Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất 6 vương quốc cổ của người hán là Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề, ông ta bắt đầu chuyển sự chú ý sang các bộ lạc người Hung Nô ở phía bắc và Bách Việt ở phía nam. Khoảng năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng sai tướng Đồ Thư cùng 500.000 quân Tần chia làm 5 đạo tấn công các bộ lạc Bách Việt ở vùng đất Lĩnh Nam. Đạo quân thứ nhất hợp binh ở Dư Can (nay là huyện Dư Can, Giang Tây) và đánh chiếm Mân Việt lập ra quận Mân Trung. Đạo quân thứ hai được tăng cường thêm tại Nam Dã (nay là huyện cấp thị Nam Khang tỉnh Giang Tây) nhằm buộc các dân tộc Việt ở phía nam phải phòng thủ. Đạo quân thứ 3 đánh chiếm Phiên Ngung. Đạo quân thứ 4 đồn trú gần núi Cửu Nghi (九嶷山). Đạo quân thứ năm đóng quân bên ngoài Đàm Thành (镡城, phía tây nam Tĩnh Châu, tỉnh Hồ Nam ngày nay). Tần Thủy Hoàng sai viên quan Sử Lộc (史禄) giám sát việc cung cấp hậu cần. Đầu tiên Sử Lộc chỉ huy một nhóm quân vượt qua kênh Hưng An (nối liền Tương giang và Li giang), sau đó dùng thuyền vượt sông Dương Tử và sông Châu Giang tìm được con đường an toàn tiếp tế lương thực cho quân Tần. Tần sau đó tấn công Âu Việt, thủ lĩnh của Âu Việt là Dịch Hu Tống bị giết. Tuy nhiên, Âu Việt vẫn phản kháng. Họ bỏ chạy vào rừng và bầu ra một thủ lĩnh mới là Kiệt Tuấn để tiếp tục chống lại Tần. sau đó một cuộc tấn công vào ban đêm của Âu Việt đã gây thiệt hại nặng cho quân Tần, tướng Đồ Thư bị giết cùng khoảng 10 vạn quân. Triều đình nhà Tần đã chọn Nhâm Ngao lên nắm quyền chỉ huy thay cho Đồ Thư. Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng cử Nhâm Ngao và Triệu Đà chỉ huy quân tiếp viện tiếp tục tấn công. Lần này Âu Việt đã bị đánh bại hoàn toàn và vùng Lĩnh Nam bị sát nhập vào Tần. Cùng năm, nhà Tần lập ra các quận Nam Hải, Quế Lâm, và Tượng Quận. Nhâm Ngao được bổ nhiệm làm quận úy Nam Hải. Nam Hải được chia thành Phiên Ngung, Long Xuyên, Bác La và Yết Dương. Triệu Đà được bổ nhiệm làm huyện lệnh Long Xuyên.

Tần Thủy Hoàng chết năm 210 TCN, con trai Hồ Hợi lên thay trở thành Tần Nhị Thế. Một năm sau, khởi nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng nổ ra. Cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp Trung Quốc, toàn bộ khu vực sông Hoàng Hà rơi vào hỗn loạn. Phong trào chống Tần ngày càng mạnh khiến Tần Nhị Thế phải bãi binh ở Lĩnh Nam. Năm 208 TCN, quận uý Nam Hải là Nhâm Ngao bị bệnh nặng, trước khi chết cho gọi Triệu Đà đến, dặn dò nên chiếm lấy vùng Lĩnh Nam cát cứ. Nhâm Ngao chết, Triệu Đà gửi lệnh đến quan quân các cửa ngõ Lĩnh Nam, canh giữ phòng chống quân đội Trung nguyên xâm phạm, và nhân dịp đó, giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cho tay chân của mình thay vào những chức vụ đó.

Năm 206, nhà Tần mất, các bộ tộc Bách Việt ở Quế Lâm và Tượng Quận trở nên độc lập hơn với Trung Quốc. Theo truyền thuyết thủ lĩnh An Dương Vương ở phía nam đã thành lập vương quốc Âu Lạc (甌駱). Cũng theo truyền thuyết, khoảng năm 179 TCN, Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc của An Dương Vương, chia lãnh thổ Âu Lạc làm 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân rồi sáp nhập vào Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận. Lãnh địa gồm 5 quận của Nam Việt ổn định tới khi nước này bị diệt cùng nhà Triệu. Năm 204 TCN, Triệu Đà thành lập Nam Việt, kinh đô đặt ở Phiên Ngung và xưng là Nam Việt Vũ vương (南越武王).

Thời Triệu Đà

Ban đầu, lãnh thổ Nam Việt gồm 3 quận Nam Hải (đại bộ phận tương đương Quảng Đông ngày nay), Quế Lâm (đông bộ Quảng Tây) và Tượng (tây bộ Quảng Tây, nam bộ Quý Châu). Nước Nam Việt phía bắc giáp Mân Việt và Trường Sa, phía tây giáp Dạ Lang, phía nam giáp Âu Lạc, phía đông nam giáp biển.

Năm 202 TCN, Lưu Bang thống nhất Trung Hoa và thành lập nhà Hán. Cuộc chiến của Lưu Bang đã khiến nhiều khu vực của Trung Quốc bị tàn phá nặng nề và dân số suy giảm. Các lãnh chúa phong kiến tiếp tục nổi loạn khắp nơi, trong khi lãnh thổ ở phía bắc thường xuyên bị người Hung Nô tấn công. Tình trạng bất ổn đó buộc triều đình Hán cư xử rất hòa hảo với Nam Việt. Năm 196 TCN, Lưu Bang, bây giờ là Hán Cao Tổ đã cử Lục Giả (陸賈) đến Nam Việt với hi vọng lấy được lòng trung thành của Triệu Đà. Sau khi đến nơi, Lục Giả gặp Triệu Đà và được cho là đã thấy Triệu Đà đón tiếp ông trong trang phục và phong tục của Bách Việt. Điều đó đã khiến cho Lục Giả nổi giận. Diễn ra một cuộc tranh cãi dài sau đó, Lục Giả đã quở trách Triệu Đà, chỉ ra rằng ông là người Hán không phải người Việt, và nên giữ cách ăn mặc cùng lễ nghi của người Hán, không được quên truyền thống của tổ tiên mình. Lục Giả ca ngợi sức mạnh của nhà Hán và cảnh báo một vương quốc nhỏ như Nam Việt chống lại nhà Hán là liều lĩnh. Sau khi đe dọa giết thân thích của Triệu Đà ở Hán và phá hủy mồ mả tổ tiên, cũng như ép buộc dân Bách Việt phế truất ông, Triệu Đà đã quyết định nhận con dấu của Hán Cao Tổ và quy phục nhà Hán. Quan hệ buôn bán được thiết lập tại biên giới của Nam Việt và vương quốc Trường Sa thuộc Hán. Mặc dù chính thức là một nước chư hầu của nhà Hán nhưng Nam Việt dường như không mất đi quyền tự chủ trên thực tế.

Sau khi Lưu Bang chết năm 195 TCN, quyền lực rơi vào tay Lã Hậu. Lã Hậu sai người đến quê hương của Triệu Đà là Chân Định (真定) (nay là huyện Chính Định, Hà Bắc, Trung Quốc) giết nhiều họ hàng thân thích và mạo phạm mộ tổ tiên của Triệu Đà. Triệu Đà tin rằng Trường Sa vương Ngô Thần đã tạo ra những lời buộc tội dối trá chống lại ông để Lã Hậu cắt đứt buôn bán giữa hai nước và để chuẩn bị đánh chiếm Nam Việt sát nhập vào vương quốc Trường Sa của Ngô Thần. Để trả thù, Triệu Đà xưng là hoàng đế của Nam Việt và đánh chiếm Trường Sa. Lã Hậu cử tướng Chu Táo chỉ huy quân đội để trừng phạt Triệu Đà. Thời tiết nóng ẩm ở phía nam khiến binh lính của Chu Táo đổ bệnh, không thể tiến tiếp xuống phía nam. Cuối cùng họ phải rút lui. Sau đó Triệu Đà chiếm các nước xung quanh Mân Việt ở phía đông và Âu Lạc ở phía nam.

Năm 179 TCN, Lưu Hằng lên ngôi vua Hán trở thành Hán Văn Đế. Ông đã đảo ngược nhiều chính sách trước đó của Lã Hậu và thực hiện thái độ hòa giải đối với Triệu Đà. Hán Văn Đế ra lệnh cho các viên quan đến thăm Chân Định, cho quân canh giữ bảo vệ huyện trấn và thường xuyên chăm lo hương hỏa tổ tiên của Triệu Đà. Tể tướng Trần Bình đề nghị cử Lục Giả đến Nam Việt vì họ đã biết nhau từ trước. Lục Giả đến Phiên Ngung thêm một lần nữa và giao bức thư của Hán Văn Đế cho Triệu Đà nhấn mạnh rằng những chính sách của Lã Hậu là nguyên nhân gây ra sự thù địch giữa Nam Việt với triều đình Hán và đem đến nỗi đau khổ cho dân thường biên giới. Triệu Đà lại quyết định quy phục nhà Hán lần nữa, rút lại danh xưng hoàng đế và trở lại xưng vương, Nam Việt lại trở thành nước chư hầu của Hán. Tuy vậy, hầu như những sự thay đổi đó là bề ngoài, Triệu Đà tiếp tục được gọi là hoàng đế khắp Nam Việt.

Ngoài 5 quận trực tiếp cai trị, Triệu Đà còn gây ảnh hưởng tới các nước nhỏ thuộc tộc Bách Việt xung quanh như Đông Việt (Chiết Giang), Mân Việt (Phúc Kiến), tức là toàn bộ phía đông Hoa Nam.

Thời Triệu Mạt

Năm 137 TCN Triệu Đà chết, đã sống hơn 100 năm. Vì tuổi tác lớn như vậy, con trai của ông hoàng tử Triệu Trọng Thủy đã chết trước, vì vậy cháu của Triệu Đà là Triệu Mạt đã trở thành vua của Nam Việt. Năm 135 TCN, vua của nước láng giềng Mân Việt mở một cuộc tấn công vào các thị trấn dọc biên giới giữa Nam Việt và Mân Việt. Vì Triệu Mạt chưa củng cố quyền lực của mình, nên buộc phải cầu xin Hán Vũ Đế gửi quân đến giúp Nam Việt chống lại điều mà ông gọi là "những kẻ nổi loạn Mân Việt". Hán Vũ Đế khen ngợi Triệu Mạt là một chư hầu trung thành và phái đại hành Vương Khôi, một viên chức cai trị người dân tộc thiểu số, và đại tư nông Hàn An Quốc chỉ huy quân đội, ra lệnh chia quân thành 2 đạo tấn công Mân Việt từ hai hướng, một từ Dự Chương, hướng khác là từ Cối Kê (nay thuộc Thiệu Hưng). Nhưng trước khi họ hành quân đến nơi thì vua của Mân Việt là Dĩnh đã bị em trai là Dư Thiện ám sát, sau đó Dư Thiện đã nhanh chóng đầu hàng.

Hán Vũ Đế sau đó cử sứ giả là Nghiêm Trợ đến Phiên Ngung để đưa bản tuyên bố đầu hàng chính thức của Mân Việt cho Triệu Mạt. Triệu Mạt đã bày tỏ lòng biết ơn của mình đến Hán Vũ Đế cùng với một lời hứa rằng ông sẽ vào kinh đô triều kiến Vũ Đế tại Trường An. Và sau đó, thậm chí Triệu Mạt đã phái con trai của mình là Triệu Anh Tề cùng trở về Trường An với Nghiêm Trợ. Trước đây Triệu Mạt chưa bao giờ tới Trường An. Một cận thần của ông đã cố gắng khuyên không nên đi vì sợ rằng Hán Vũ Đế sẽ tìm ra một vài nguyên nhân để ngăn cản ông quay trở về, điều đó sẽ dẫn đến sự diệt vong của Nam Việt. Triệu Mạt vì vậy đã cáo bệnh và không bao giờ đến Trường An.

Ngay sau khi Mân Việt đầu hàng quân Hán, Vương Khôi đã phái Đường Mông, huyện lệnh Phiên Dương, đến để đưa tin Mân Việt đầu hàng cho Triệu Mạt. Khi ở Nam Việt, Đường Mông đã được giới thiệu ăn một loại nước xốt truyền thống của Nam Việt được làm từ quả sơn tra nhập khẩu từ đất Thục. Ngạc nhiên rằng đó là một sản vật sẵn có, và Đường Mông đã từng được biết rằng có một tuyến đường từ Thục (Nay là tỉnh Tứ Xuyên) đi đến Dạ Lang, rồi sau đó dọc theo sông Tang Kha (Ngày nay là sông Bắc Bàn chảy qua tỉnh Vân Nam và Quý Châu) đi thẳng đến thủ đô Phiên Ngung của Nam Việt. Ngay sau đó Đường Mông đã phác thảo một kế hoạch trình lên Hán Vũ Đế đề nghị tập hợp 100.000 quân tinh nhuệ tại Dạ Lang, sau đó dùng thuyền vượt sông Tang Kha để mở cuộc tấn công bất ngờ vào Nam Việt. Hán Vũ Đế đồng ý với kế hoạch của Đường Mông và phong ông làm Lang Trung tướng và cho phép ông dẫn đầu 1000 quân cùng nhiều quân lương và xe hàng từ hẻm Ba Phù (ngày nay gần huyện Hợp Giang, tỉnh Tứ Xuyên) tiến vào Dạ Lang. Nhiều xe hàng mang theo là quà tặng cho các lãnh chúa phong kiến của Dạ Lang như là quà hối lộ để họ tuyên bố trung thành với nhà Hán, điều mà sau đó họ đã làm, và Dạ Lang trở thành quận Kiền Vi của nhà Hán.

Sau hơn một thập kỷ trị vì, Triệu Mạt đổ bệnh và qua đời khoảng năm 125 TCN.

Thời Triệu Anh Tề

Sau khi nghe tin cha đổ bệnh nặng. Triệu Anh Tề nhận được sự chấp nhận từ Hán Vũ Đế quay trở về Nam Việt. Sau khi Triệu Mạt chết, Triệu Anh Tề lên ngôi vua Nam Việt. Trước khi được phái đến Trường An, Triệu Anh Tề đã kết hôn với một phụ nữ trẻ người Việt và đã có một con trai là Triệu Kiến Đức. Trong khoảng thời gian Triệu Anh Tề sống ở Trường An, ông cũng cưới một phụ nữ người Hán, giống như ông, một người đến từ Hàm Đan (vì quê hương của Triệu Đà cũng ở vùng đó). Họ đã có một con trai tên là Triệu Hưng. Vì kiêu ngạo với ngôi vị vua Nam Việt, ông đã xin Hán Vũ Đế để lập người vợ Hán thành hoàng hậu và Triệu Hưng thành hoàng tử, một hành động mà cuối cùng đã mang đến thảm họa chống lại Nam Việt. Triệu Anh Tề có tiếng là một bạo chúa vì đã giết nhiều thường dân một cách tự do. Triệu Anh Tề chết khoảng năm 113 TCN.

Thời Triệu Hưng

Triệu Hưng lên ngôi khi mới 5 tuổi, mẹ Cù thái hậu tham chính. Hán Vũ Đế sai sứ giả An Quốc Thiếu Quý, vốn là tình nhân cũ của Cù thái hậu, sang thuyết phục Nam Việt quy phụ nhà Hán. Cù thái hậu lại cùng Thiếu Quý tư thông và muốn thuận theo nhà Hán, nhưng thừa tướng người Việt là Lữ Gia phản đối. Năm 112 TCN, Lữ Gia mang quân đánh vào cung, giết chết Cù thái hậu và Triệu Hưng cùng An Quốc Thiếu Quý, lập anh Triệu Hưng là Triệu Kiến Đức lên ngôi, tức là Triệu Thuật Dương vương.

Kết thúc

Năm 111 TCN, Hán Vũ Đế sai Dương Bộc, Lộ Bác Đức đem đại quân sang đánh. Vua Triệu là Thuật Dương Vương Kiến Đức và Tể tướng Lữ Gia đều lần lượt bị bắt và bị hại (111 TCN). Nhà Triệu bị diệt, nước Nam Việt cùng mất sau 97 năm tồn tại, với 5 đời vua.

Sau khi chiếm được Nam Việt, Hán Vũ Đế gộp lãnh thổ với đảo Hải Nam, lập ra Bộ Giao Chỉ. Sau đó nhà Hán chia tách, sáp nhập lại đất đai của Nam Việt cũ thành 6 quận (cả Bộ Giao Chỉ mới gồm 9 quận).

Hơn 650 năm sau, Lý Bí đánh đuổi quân Lương lập ra nước Vạn Xuân năm 544, cũng xưng là Nam Việt Đế mà sử quen gọi là Lý Nam Đế.

Hơn 10 thế kỷ sau, tướng nhà Đường là Lưu Nghiễm cũng nhân lúc Trung Nguyên loạn lạc, chiếm cứ vùng Lĩnh Nam (Lưỡng Quảng) lập ra nước Đại Việt năm 917, rồi sang năm 918 đổi tên thành Nam Hán; Phiên Ngung cũng được họ Lưu chọn làm kinh đô. Phần Âu Lạc cũ khi đó do họ Khúc người Việt cai trị, Nam Hán chỉ chiếm được trong thời gian ngắn.

Năm 1804 (1915 năm sau khi Nam Việt mất), sau khi diệt nhà Tây Sơn, vua Gia Long sai sứ sang thỉnh cầu nhà Thanh thừa nhận quốc hiệu mới là Nam Việt, nhưng vua Gia Khánh cho rằng nước Nam Việt cũ của Triệu Đà bao gồm cả Lưỡng Quảng của Trung Quốc nên đảo 2 chữ thành Việt Nam để tránh lầm lẫn.

Dân tộc và ngôn ngữ

Trống đồng lấy từ mộ số 1 La Bạc Loan, Quảng Tây. Đây là trống đồng thời nhà Triệu nước Nam Việt. Trống đồng là biểu trưng quyền lực quốc gia của các tộc Bách Việt.

Thanh kiếm bằng đồng có niên đại cuối thời Chiến Quốc - đầu thời kỳ dựng nước Nam Việt được khai quật tại một ngôi mộ ở Quảng Tây, Trung Quốc

Đa số cư dân của Nam Việt là người Bách Việt cùng khoảng 100.000 người Hán di cư xuống phía nam, nhóm người Hán này nắm giữ hầu hết các chức vụ quyền lực trong bộ máy chính quyền Nam Việt. Họ bao gồm con cháu của binh lính Tần được gửi xuống chinh phục phía nam với những cô gái trẻ làm phục vụ tình dục trong quân đội, các quan lại và tội phạm nhà Tần bị lưu đày, và cả các thương gia.

Cư dân Nam Việt sinh sống chủ yếu ở phía bắc, phía đông và trung tâm Quảng Đông, một nhóm nhỏ sinh sống ở phía đông Quảng Tây.

Người Âu Việt sinh sống tại khu vực phía tây Quảng Đông, họ tập trung chủ yếu dọc lưu vực các con sông như Tầm Giang, Tây Giang và khu vực phía nam sông Quế Giang. Những con cháu của Dịch Hu Tống, thủ lĩnh Âu Việt bị quân Tần giết vẫn nắm giữ vai trò là thủ lĩnh của các thị tộc Âu Việt. Đến khi Nam Việt bị Hán diệt, khu vực quận Quế Lâm đã có khoảng vài trăm ngàn người Âu Việt sinh sống.

Các thị tộc Lạc Việt sinh sống ở khu vực ngày nay là nam Quảng Tây và bắc Việt Nam, bán đảo Lôi Châu (Quảng Đông) và vùng tây nam Quý Châu. Họ tập trung tại các lưu vực Tả Giang và Hữu Giang Quảng Tây, đồng bằng sông Hồng ở bắc Việt Nam, và lưu vực sông Pan ở Quý Châu.

Peter Bellwood đề xuất rằng dân tộc Việt Nam là hậu duệ của người Việt cổ sinh sống tại phía bắc Việt Nam và phía tây Quảng Đông.

Nam Việt vẫn thực hiên phần lớn các chính sách từ thời Tần đối với sự tiếp xúc của người bản xứ với người Hán di cư. Triệu Đà chủ chương đẩy mạnh chính sách giao hòa hai nền văn hóa với nhau. Sau khi chiếm được Âu Lạc, Triệu Đà chỉ dùng 2 quan sứ cai quản 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân, và cho duy trì chế độ Lạc tướng cha truyền con nối, tổ chức vùng (bộ hay bộ lạc) của người bản địa vẫn chưa bị xóa bỏ. Nhưng người Hán nắm giữ hầu hết các chức vụ trong chính quyền, sự áp đảo này diễn ra ngay sau khi quân Tần chinh phục phía nam. Trải qua thời gian, người Việt bắt đầu tham gia nhiều hơn vào chính quyền. Lữ Gia thừa tướng cuối cùng của Nam Việt là một người bản địa, và hơn 70 họ hàng thân thích của ông ta đã làm quan với các cấp bậc khác nhau trong chính quyền của Nam Việt. Tại những khu vực dân cư mà triều đình gọi là "phức tạp", các thủ lĩnh người bản địa thường được trao cho quyền tự trị lớn. Dưới quyền cai trị của mình Triệu Đà đã thúc đẩy người Hán di cư vào biên giới Nam Việt. Hôn nhân giữa người Hán và người bản địa trở nên ngày càng phổ biến trong suốt thời gian tồn tại của Nam Việt, thậm chí xảy ra trong hoàng tộc họ Triệu. Nhiều cuộc hôn nhân giữa hoàng tộc họ Triệu và gia đình của Lữ Gia đã được sử sách ghi chép. Triệu Kiến Đức vị vua cuối cùng của Nam Việt là con trai của vị vua trước Triệu Minh Vương với vợ người bản địa.

Tiếng Hoa cổ là ngôn ngữ chính thống trong triều đình Nam Việt, đa số dân chúng nói tiếng bản địa - thứ ngôn ngữ ngày nay không còn và được xem là nguồn gốc của tiếng Choang và tiếng Thái hiện nay. Tổ chức triều đình Nam Việt còn mang nặng màu sắc thủ lĩnh bộ lạc bản địa. Sự hòa trộn của họ Triệu với những người Bách Việt được xem là nhân tố tạo nên tộc Triệu lớn mạnh còn phổ biến trong số người Choang, người Tày, người Nùng ở Quảng Tây - Trung Quốc và các tỉnh biên giới Việt Nam như Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng Sơn... Có ý kiến nhìn nhận những thủ lĩnh người Việt chống Bắc thuộc sau này như Triệu Quốc Đạt, Triệu Thị Trinh hay Triệu Quang Phục là hậu duệ của nhà Triệu nước Nam Việt.

Do hầu như không còn bằng chứng về chữ viết thời kỳ này của người Lĩnh Nam bản địa, cuộc chinh phục của người Hoa được xem là tác nhân truyền bá chữ viết Hán tới khu vực này. Nhiều di tích hiện vật trong lăng mộ Triệu Văn Vương tại Quảng Châu có sự hiện diện của chữ viết. Tuy nhiên, văn tự Hán ở Nam Việt vẫn kém phát triển, qua kết quả khảo cổ cho thấy những minh văn chữ Hán được khắc rất xấu và mắc nhiều lỗi chính tả trên đồ ngự dụng cho vua và các phu nhân.

Di chỉ khảo cổ

Di tích cung vua nhà Triệu nằm tại thành phố Quảng Châu trên diện tích 15.000 mét vuông. Được khai quật năm 1995, di tích này còn chứng tích của cung điện nước Nam Việt cổ. Năm 1996, nơi đây được Chính phủ Trung Quốc liệt vào danh sách các Di tích văn hóa quốc gia của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Năm 1983, lăng mộ Triệu Văn Đế được khai quật ở Quảng Châu thuộc Quảng Đông. Năm 1988, Bảo tàng Lăng mộ vua Triệu được xây dựng tại khu đất này, nhằm trưng bày hơn 1000 hiện vật, trong đó có 500 hiện vật bằng đồng, 240 hiện vật bằng ngọc và 246 hiện vật bằng sắt. Năm 1996, chính phủ Trung Quốc đưa công trình này vào danh sách Khu Di sản quốc gia được bảo vệ.

Một chiếc ấn (triện) bằng đồng khắc chữ "Ấn dành cho thủ lĩnh huyện Tư Phố" được phát hiện ở Thanh Hoá thuộc miền bắc Việt Nam trong thập niên 1930. Do sự tương đồng với những chiếc ấn được tìm thấy ở lăng mộ Triệu Văn Đế, chiếc ấn đồng này được công nhận là ấn chính thức của nước Nam Việt. Có nhiều đồ tạo tác được phát hiện tại khu vực thuộc về văn hoá Đông Sơn ở miền bắc Việt Nam. Các hiện vật được chôn cất cùng thời với lăng mộ Triệu Văn Đế.

Ngoài lăng mộ vua Triệu, các nhà khảo cổ còn khai quật được mộ một viên quan thuộc hàng Huyện lệnh ở La Bạc Loan, huyện Quý (nay là thành phố Quý Cảng), tỉnh Quảng Tây và nhiều mộ chí ở Quảng Châu, Hợp Phố được xếp vào niên đại đầu thời Tây Hán (ngang với thời gian tồn tại của Nam Việt). Ban đầu, các nhà khảo cổ Trung Quốc xếp chung các mộ này vào văn hóa Tây Hán, nhưng sau đó càng ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc và quốc tế nhận thấy sự khác biệt giữa các di tích này với văn hóa Tây Hán. Do đó, họ dùng thuật ngữ văn hóa Nam Việt hay văn hóa Giao Chỉ để phân biệt văn hóa vùng này với văn hóa Tây Hán, tương tự như những nền văn hóa các vùng Ba, Thục, Điền ở Tứ Xuyên, Vân Nam cũng khác văn hóa Trung Nguyên của Tây Hán đương thời. Nền tảng của văn hóa Nam Việt là văn hóa đồng thau Bách Việt nói chung, trong đó yếu tố Đông Sơn khá đậm nét.

Các vua Nam Việt

Nhà Triệu tồn tại từ năm 203 đến năm 111 trước Công Nguyên thì bị nhà Hán thôn tính, trải qua 5 đời vua. Các sử gia Trung Quốc, vì coi Nam Việt là chư hầu, đều chép các vua Nam Việt tước "vương", các sử gia Việt Nam soạn Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục... cũng theo sử sách Trung Quốc mà biên chép các vua Triệu tước vương, trừ Triệu Đà được chép là Vũ Đế. Tuy nhiên, qua kết quả khai quật mộ vua Triệu thứ hai (vẫn được sử Việt Nam quen gọi là Triệu Văn Vương) cho thấy các ấn chương, văn bản và danh xưng đều là "đế" chứ không phải vương. Điều đó gây bất ngờ với chính các sử gia Trung Quốc hiện đại. Giới sử học thống nhất rằng: tước vương của các vua Nam Việt chỉ là xưng hiệu trong quan hệ ngoại giao với nhà Hán (giống các triều đại Việt Nam trong quan hệ với các triều đại Trung Quốc sau này), còn trong nội bộ Nam Việt, các vua Triệu đều xưng đế.

Các vua Triệu xưng đế, những người hoàng tộc họ Triệu được phong "vương" và các thủ lĩnh người Việt ở đất Âu Lạc cũ (tự quản) cũng có tước "vương" như Tây Vu vương. Sử sách còn ghi lại khi Nam Việt bị diệt, hoàng thân là "Thương Ngô vương Triệu Quang cùng huyện lệnh Yết Dương tên là Định đầu hàng".

Các vua Triệu gồm có:

1. Triệu Vũ Đế hay Triệu Vũ Vương (Triệu Đà, 203-137 trước Công nguyên).

2. Triệu Văn Đế hay Triệu Văn Vương (Triệu Mạt hay Triệu Hồ, 137-125 trước Công nguyên).

3. Triệu Minh Đế hay Triệu Minh Vương (Triệu Anh Tề, 125-113 trước Công nguyên).

4. Triệu Ai Đế hay Triệu Ai Vương (Triệu Hưng, 113-112 trước Công nguyên). 

5. Triệu Dương Đế hay Triệu Dương Vương (Triệu Kiến Đức, 112-111 trước Công nguyên).

                                                                                                                                                [quay lại]


Tổng số thành viên: 19602
Thành viên mới nhất: Vũ ngọc khánh
Đang trực tuyến: 14
Lượt truy cập: 4326773